Báo cáo World Bank: Tỉ lệ người học đại học ở Việt Nam còn thấp

Chương trình sau phổ thông đang "giảm giá trị"?

Sau khi tính đến sự khác biệt về thời lượng học tập giữa các quốc gia, nhóm nghiên cứu nhận thấy số năm đi học bình quân của Việt Nam là 10,2 năm, chỉ đứng sau Singapore trong khối ASEAN.

Tuy nhiên, tỉ lệ nhập học giáo dục sau phổ thông của Việt Nam năm 2019 chỉ đạt 28,6%, thấp hơn so với các quốc gia trong khu vực. Trong khi đó, ở các quốc gia thu nhập trung bình cao, tỉ lệ nhập học giáo dục sau phổ thông đạt bình quân 55,1%.

Theo các chuyên gia World Bank, điều này cho thấy trong số khoảng 6,9 triệu người thuộc độ tuổi đi học các chương trình sau phổ thông, chỉ có hơn 2 triệu người nhập học.

Báo cáo cũng chỉ ra suất sinh lợi của giáo dục và kỹ năng - chỉ số được đo bằng thay đổi về mức lương theo giờ của người lao động có trình độ sau phổ thông so với các nhóm có trình độ dưới tiểu học - giảm từ 70% trong năm 2010 xuống 50% trong năm 2020.

Theo một chuyên gia về nguồn nhân lực tại TP.HCM, suất sinh lợi trên giảm cho thấy ở Việt Nam, những lợi ích điển hình về mặt lương bổng giữa một lao động có trình độ đại học và những người có trình độ THPT, THCS… đang có chiều hướng thu hẹp.

"Có thể hiểu rằng thị trường lao động ngày càng có nhiều công việc dành cho những người tốt nghiệp đại học nhưng những người chỉ tốt nghiệp phổ thông cũng đã làm được. Đồng nghĩa xét trên mặt bằng chung, giáo dục sau phổ thông phần nào đang mất đi những ‘giá trị tăng thêm’ cho người học", vị này nói.

Các chuyên gia World Bank cho rằng xu hướng này một phần do sự phù hợp về kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp chưa cao trên thị trường lao động. Hiện nay, Việt Nam xếp hạng 3 từ dưới lên trong số 140 quốc gia được đánh giá trong "Chỉ số năng lực cạnh tranh năm 2018" về sự phù hợp về kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp.

Lý do có thể vì nền kinh tế chưa tạo đủ việc làm đòi hỏi kỹ năng cao, vì vậy một số sinh viên tốt có kỹ năng cao phải nhận những công việc có kỹ năng thấp hơn và thù lao thấp hơn.

Kỹ năng của nhiều sinh viên tốt nghiệp còn chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Các doanh nghiệp cho biết họ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm lao động có kỹ năng lãnh đạo và quản lý (73%) hoặc kỹ năng chuyên môn kỹ thuật (68%).

4 điều cần sớm chuyển đổi

 

Sinh viên thực tập tại một trường đại học

Các chuyên gia của World Bank đánh giá việc thiếu kinh phí từ ngân sách nhà nước, kết hợp với thể chế quản trị giáo dục sau phổ thông yếu kém và manh mún là yếu tố gây ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục đại học cũng như đến tốc độ phát triển năng lực đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ.

Cụ thể, Việt Nam chi thấp hơn các quốc gia khác trong khu vực cho giáo dục đại học. Trong năm 2019, giáo dục đại học ở Việt Nam cũng như cao đẳng dạy nghề được phân bổ 0,6% GDP, so với 0,86% tại Malaysia và 0,9% tại Hàn Quốc.

Nhóm nghiên cứu thực hiện báo cáo của World Bank cho rằng có 4 điểm chuyển đổi quan trọng, qua đó đổi mới có thể đem lại kết quả đáng kể đối với giáo dục đại học.

Trước hết là nâng cao khả năng tiếp cận và công bằng. Giả sử mục tiêu về tỉ lệ nhập học giáo dục sau phổ thông của Việt Nam đến năm 2030 là 45%, chỉ tiêu tuyển sinh bổ sung ước tính phải là 1,3 triệu mới đạt được tổng số 3,8 triệu sinh viên.

Để có thể mở rộng quy mô như vậy, nhu cầu đặt ra là đảm bảo các cơ sở giáo dục tư nhân và ngoài đại học đóng một vai trò lớn hơn hiện nay. Mô hình đào tạo đa dạng hơn, trong đó có hình thức học tập trực tuyến và ứng dụng công nghệ số; tăng cường nguồn tuyển sinh ngay từ bậc giáo dục trung học; và có hỗ trợ tài chính cho sinh viên.

Thứ hai là cải thiện chất lượng và sự phù hợp. Để cải thiện chất lượng, trọng tâm cần đặt vào đổi mới phương pháp dạy và học, quản lý tốt đội ngũ nghiên cứu và giảng dạy tài năng, đầu tư cho cơ sở hạ tầng giáo dục, công nghệ thông tin và truyền thông.

Trong khi đó, để cải thiện sự phù hợp của các chương trình giáo dục đại học, nhu cầu đặt ra nữa là cần xây dựng liên kết chặt chẽ hơn giữa các cơ sở giáo dục đại học với các doanh nghiệp.

Thứ ba là cải thiện về đảm bảo tài chính cho lĩnh vực giáo dục đại học. Các chuyên gia cho rằng giáo dục đại học cần chuyển sang hướng đảm bảo tài chính bền vững thông qua phân bổ tốt hơn nguồn vốn của Nhà nước và sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn của khu vực tư nhân.

Ưu tiên trước mắt là đảm bảo nguồn lực hiện có phải được sử dụng hiệu quả. Dần dần, nguồn vốn của Nhà nước dành cho giáo dục sau phổ thông cần được tăng thêm, nhất là khi nhu cầu giáo dục đại học tiếp tục tăng thêm. Tuy nhiên, vì Nhà nước cung cấp khoảng 80% các chương trình giáo dục sau phổ thông, vai trò của các cơ sở giáo dục dân lập bậc sau phổ thông vẫn cần được nâng cao hơn nữa.

Cuối cùng, báo cáo cho rằng cần cải thiện về quản trị trong lĩnh vực giáo dục đại học. Chính phủ nên xem xét sắp xếp lại cơ cấu quản lý lĩnh vực giáo dục đại học để tạo điều kiện phát triển và cải thiện chất lượng.

Nhu cầu đặt ra là xác định tầm nhìn và chiến lược cho giáo dục đại học, sửa đổi cấu trúc ngành và khung pháp quy, kết hợp với các biện pháp đảm bảo chất lượng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các trường đại học hoạt động theo hướng tự chủ và tự đảm bảo trách nhiệm giải trình trong một cấu trúc quản trị hiệu quả hơn.

Các chuyên gia khẳng định cần giao cho một bộ duy nhất phụ trách công tác quản lý nhà nước đối với các trường đại học, trường kỹ thuật và dạy nghề, nghiên cứu và công nghệ. 

Các cấp có thẩm quyền cần chủ động theo dõi tiến độ và kết quả đầu ra của chương trình cải cách này thông qua hệ thống quản lý thông tin hiện đại.

P. ĐT-QLKH-HTQT sưu tầm